Đình, chùa Cam Lộ thuộc phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng (cũ), nay là phường Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Đình, chùa cách trung tâm thành phố khoảng 4 km. Đây là công trình kiến trúc, văn hóa nhằm gìn giữ thuần phong mỹ tục của quê hương, tri ân những người có công với dân, với nước. Trước năm 1945, đình - chùa thuộc xã Cam Lộ, tổng Quỳnh Hoàng, huyện An Dương, tỉnh Kiến An.
Theo bản thần tích và tài liệu (Từ điển Bách Khoa địa danh Hải Phòng – sách trích dẫn, trang 61 – vần C) cho thấy đình – chùa Cam Lộ đều có liên quan đến Vương triều nhà Lý (1010 – 1226). Đình - Chùa Cam Lộ chính thờ Nguyễn Trung Thành, ngài là người hiếu hạnh, ham học, có chí khí, có công lớn trong sự nghiệp đánh Tống bình Chiêm, được giữ chức Bình Chương Quân quốc trọng sự (hàm Tể tướng). Trong trận Chàng Sơn, Nguyễn Trung Thành đã hy sinh. Vua nhà Lý cho lập đền thờ, có bức đại tự lưu lại bằng chữ Hán tóm lược cuộc đời binh nghiệp vẻ vang của ông: “Lưỡng phiên phạt Tống bình Chiêm” và đôi câu đối:
Chàng Sơn chính khí tồn thiên địa.
Cam Lộ linh từ quán cổ kim.
Tạm dịch:
Chàng Sơn chính khí lưu trời đất,
Cam Lộ đền thiêng suối cổ kim.
Ngoài việc tôn thờ Đức Thánh Cam Lộ Nguyễn Trung Thành, tại khu vực di tích đình – chùa Cam Lộ còn phối thờ hai bà: Lý Ngọc Châu và Trần Thị Hảo đều sinh thời Lý, hai bà từng tu tại ngôi chùa làng Cam Lộ và đã có công cứu giúp những người nghèo khó. Sau khi mất, được dân làng nhớ ơn lập miếu thờ tại khu vực chùa (thờ bằng tượng), ở đình thờ bằng bài vị.
Mặt của đình quay hướng Nam, ghé Đông; có bố cục mặt bằng theo kiểu chữ đinh truyền thống, gồm 03 gian bái đường, 02 gian cung cấm, bái đường xây cất theo lối “Hồi tường bít đốc”. Sau nhiều năm gián đoạn ngôi đình mới được tu tạo vào cuối thập kỷ 90 nên còn nhiều hạn chế về quy hoạch tổng thể công trình, trước một diện tích không gian thoáng rộng như hiện nay. Phía trước ngôi đình là một khoảng sân rộng, cổng được xây cất theo lối vọng lâu hai tầng “Thượng thu-hạ thách”, nhưng điều khác biệt chính ở sự bố trí là cùng đứng song hàng ở hai phía Đông Tây, chính giữa đường thần đạo lại là một lối đi vừa phải, tường thấp. Phía bên trái sân đình là khu nhà phụ nơi họp hội của Ban quản lý đình, phía bên phải là lối ra con đường dẫn sang phía ngôi chùa Hà Lai.

Trải qua thời gian, đình – chùa Cam Lộ hiện còn lưu giữ được một số di vật, cổ vật, đồ thờ tự có giá trị văn hóa đặc sắc như: Khám thờ, thần tượng Thành Hoàng được tạc theo lối tượng thần, chất liệu gỗ, phủ sơn; cỗ khám và thần tượng ngự trên ngai rồng, mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn của thế kỷ 20; bát hương đá 01 chiếc; long đình 01 bộ; bát bửu 01 bộ, 8 cây được bài trí hai bên theo trục dọc của đường thần đạo từ cửa cung cấm ra toà bái đường.
Bên cạnh đó, Chùa là một ngôi chùa cổ, có một quy mô bề thế bởi phạm vi rộng, diện tích cây xanh bao bọc và nhiều toà ngang dãy dọc được kiến tạo trong khu vực đất nội tự. Cổng chùa xây theo lối cửa vòm-vọng lâu án ngữ hướng Nam. Trên phần thành nóc, đắp nổi tên chữ của ngôi chùa “Hà Lai Tự” bằng chức Hán. Ngôi chùa gồm toà phật điện, ngôi thờ mẫu, toà sơn trang, nhà khách đều có niên đại nửa cuối thế kỷ 19. Trong đó, toà phật điện có cấu trúc đơn giản kiểu “Tường hồi bít đốc”; có bố cục mặt bằng chữ đinh gồm ba gian bái đường – hai gian chuôi vồ. Vì nóc mái kết cấu theo kiểu “Giá chiêng biến thể”. Đồng thời, có một số công trình phụ cận như 04 mộ tháp Sư Tổ, nhà bia cổ, thời Nguyễn, toà núi Sơn trang.

Trải qua thời gian Chùa Cam Lộ được trùng tu, tôn tạo (1996 và 1997) và chùa hiện còn lưu giữ được một số di vật, cổ vật, đồ thờ tự có giá trị văn hóa đặc sắc như: như bia đá, chuông đồng, tượng Thánh, tượng Phật, hoành phi, câu đối…Trong đó, bức đại tự cổ treo chính giữa xã gian cung chuôi vô nổi rõ hàng chứ Hán: “Hưng sùng cổ sát ”; một số pho tượng có giá trị như bộ tượng Tam thế, 3 pho tượng biểu hiện cho Đức Phật ở ba thời kỳ: Quá khứ - hiện tại – vị lai, trong đó bộ tượng Tam thế được tạo toạ thiền trên đài sen, đặt ở vị trí cao nhất, chính giữa phật điện; tượng Di Đà Tam Tôn gồm ba pho (Nam Tào – Bắc Đẩu – Quan âm Nam Hải), trong đó tượng Quan Âm Nam Hải xuất hiện từ thời Mạc (thế kỷ 16-17), tượng Đức Di Lặc; Đức Thích Ca; tượng Tổ đệ nhất Trúc Lâm trên niết bàn;…Chuông đồng có niên hiệu “ Hoàng triều Tự Đức năm thứ 14” ( 1862); câu đối 04 đôi; đại tự 01 bức; bia đá 02 chiếc.
Hàng năm đình, chùa Cam Lộ được tổ chức vào dịp đầu xuân, khoảng từ ngày mùng 6/2-10/ 2 Âm lịch trong không khí vui xuân, đoàn kết trong cộng đồng, nhằm quy tụ những người con quê hương có dịp về quê thăm lại mảnh đất xưa nay đã và đang thay đổi từng giờ, cùng sự đi lên của thành phố.
Ngày 28 tháng 01 năm 2005, Uỷ ban nhân dân thành phố ra quyết định số 178-QĐ/UB về việc xếp hạng và cấp bằng công nhận đình – chùa Cam Lộ là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp thành phố.