Đền Hạ thuộc phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, cách Bưu Điện trung tâm thành phố khoảng hơn 01 km. Đền Hạ là một công trình văn hóa tâm linh, tín ngưỡng do chính cộng đồng dân cư xây dựng nên để thờ phụng những người có công với dân, với nước; có công che chở, chiêu tập cư dân phát triển từ ấp làng Hạ đến ngày nay.
Đền Hạ là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ, nghệ thuật trang trí kiến trúc của đền Hạ chủ yếu tập trung ở các vị trí có điều kiện phô diễn vẻ đẹp như các thanh rường, đấu hoa sen, xà nách, bẩy nghiêng, vì cốn mê...Đề tài trang trí khá quen thuộc như mây cụm, hoa lá cách điệu, hoa lá hóa long, rồng, hổ phù ngậm chữ Thọ…đền Hạ xưa nay vốn tôn thờ công chúa Liễu Hạnh, một nhân vật huyền thoại văn hoá được nhân dân ta tôn gọi là “Mẫu Nghi thiên hạ”, từ đây lại được dân làng phối thờ vị Nguyễn Tướng Công, người có công chiêu dân lập ấp Hạ Lý từ buổi đầu tiên. Trong đó có một đôi câu đối cổ treo trong di tích có nội dung như sau:
Hương hoả xuân thu, Hạ Lý vĩnh truyền, thiên cổ ấp
Y quán lễ nhạc từ văn cùng ấn, ức niên từ.
Đặc biệt, mở đầu cho đền Hạ là một tam quan sừng sững, tam quan chính là cổng của di tích. Cổng giữa cao to, xây theo kiểu ngôi lầu hai tầng tám mái với đề tài rồng chầu phượng múa, mặt nguyệt, dải mây. Hai cổng bên được làm nhỏ hơn cổng giữa, trông giống ngôi nhà hai mái đơn giản, lối đi lại xây cong hình vòm cuốn. Sân đền được chỉnh trang, tôn tạo khá cầu kỳ; sân đồng thời cũng là vườn, là khu non bộ xanh tươi kỳ vĩ của di tích. Trong sân có cây cổ thụ như: muỗm, đại, mít ... có chậu hoa cây cảnh, có hòn non bộ, có động Sơn Trang, có bể cá vàng, có hương lộ thiên... trông như một lâm viên trong các cung vua, phủ chúa thu nhỏ. Kiến trúc chính của đền Hạ quay hướng Nam trong tư cách “Thánh nhân Nam diện nhi thỉnh thiên hạ”, nghĩa là: “Thánh nhân ngồi quay hướng Nam mà nghe thiên hạ tâu bày”.
Đền được bố cục theo kiểu chữ đinh (J), gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung. Bên trái toà hậu cung nhân dân địa phương đã xây dựng một nhà dọc 3 gian kiểu chuôi vồ song song với hậu cung và mặt trước thông sang gian hồi của tiền đường để lập nên một điện thờ Phật. Đền Hạ được xây theo lối bổ trụ, giật tam cấp chắc khỏe. Mái lợp ngói vẩy rắn, được làm bằng xi măng cát, một phương pháp phục chế ngói cổ hết sức sáng tạo của văn hoá dân gian Việt Nam. Toà tiền đường, khung chịu lực chính của ngôi đền hoàn toàn sử dụng vật liệu xây dựng là gỗ lim. Toà nhà đứng vững trên 4 bộ vì kèo gỗ và 2 tường hồi dốc. Các vì kèo được làm tương tự nhau theo kiểu “chồng giường giá chiêng”. Ba gian trung tâm mở hệ thống cửa gỗ theo kiểu “cửa thu và khung khách”.
Tòa hậu cung đền Hạ là nhà dọc 3 gian phía sau tiền đường mà dân gian quen gọi là 3 gian chuôi vồ. Lòng nhà hậu cung bằng chiều rộng của gian trung tâm và một phần hai tả gian, hữu gian của toà tiền đường. Xét về mặt kiến trúc thì toà hậu cung có cùng một chất liệu và kỹ thuật xây dựng như toà tiền đường. Nét dị biệt của tòa này so với tiền đường ở chỗ: kết cấu vì kèo “chồng giường giá chiêng” được thay bằng vì kèo ván mê làm bằng các tấm gỗ dày. Ngăn cách với gian cung cấm, đồng thời là cung Mẫu là bức tường vốn là hồi đốc của hai gian hậu cung trong lần tu sửa sau chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Bức tường này là giới hạn tạo thành cũng để lập ban thờ chư vị Thành Hoàng, hai bên trổ hai cửa đi lại nhỏ dẫn sang cung Mẫu phía sau. Hậu cung là nơi người xưa xây cất, tạo lập các ban thờ đồ sộ, uy nghi, nơi an vị thần tượng Chư vị Thành Hoàng trong một trật tự thờ cúng đậm đà bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, đền Hạ còn có hai ngôi nhà bia nhỏ kèm bên tiền đường, ở vị trí thường dành cho các tòa giải vũ. Nhà bia mang dáng dấp của một lầu điện bốn mái, với đao cong bai bai. Mỗi nhà bia làm nhiệm vụ bảo tồn một tấm bia đá lớn (cao 1,6 m, rộng 0,8 m, dày 0,2 m).
Mặc dù, trải qua thời gian nắng nóng, mưa, bão, chiến tranh đền Hạ hiện còn lưu giữ được khá nhiều di vật, cổ vật, đồ thờ tự có giá trị văn hóa đặc sắc như: bát bửu 1 bộ, bộ bát bửu của đền Hạ gắn với tư tưởng của đạo Nho, gồm 8 thứ quý là: Pho sách, cuốn thư, lẵng hoa, bầu rượu, đàn tỳ, cái quạt, phất trần, cây như ý; đại tự 04 chiếc; câu đối lòng máng 02 đôi, câu đối hình chữ nhật dẹt 03 đôi; chuông đồng 02 chiếc, cao 70cm, đường kính miệng 30cm; tượng Thánh Nguyễn Tướng Công, cao 1,10m, văn bia dụng tháng 4 năm 1921 “... tháng 5 năm Minh Mạng thứ 5 (1824); tượng Trần Quốc Tuấn, tượng Trần Quốc Toản mới tạc, tượng Trần Đệ Nhất và Đệ Nhị vương cô; đằng gỗ 01 đôi; nhang án gỗ 01 chiếc, là một trong những chiếc nhang án đẹp, sản phẩm của nghệ thuật dân tộc cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20; y môn 01 chiếc; Bát hương đồng 01 chiếc, bát hương hình trụ tròng, đường kính miệng 38 cm; Đỉnh đồng 01 chiếc; cây đèn đồng 01 đôi; tượng Mẫu 03 pho; tượng Phật Tam Thế 03 pho, tượng Ngọc Hoàng và Nam Tào Bắc Đẩu (mới tạc); chiêng đồng 01 chiếc; bia đá 04 chiếc, tấm bia đá thứ nhất đặt ở hậu cung đền, dựng tháng 4 năm 1921 khắc chìm chữ Hán, cao 0,8m, tấm bia đá thứ hai đặt ở nhà bia hữu mạc, cao 1,6m, rộng 0,85 m, dày 02. Dòng lạc khoản ghi rõ “Khải Định lục niên”, tấm bia thứ ba đặt ở nhà tả mạc cao 1,50m, rộng 0,82m, dày 0,20m. Bia khắc chữ Pháp văn, đề hiệu 1921 ngày 25/2, tấm bia thứ tư cao 0,8m, Niên hiệu Tự Đức thứ 19 (1866)….
Hàng năm Lễ hội tại đền Hạ thường diễn ra từ ngày 10 đến ngày 12 tháng 2; ngày 03/3 ngày giỗ bà Liễu Hạnh (tháng 3 giỗ mẹ); Ngày 19 - 4 kỷ niệm ngày mất của vị tướng họ Nguyễn có công chiêu dân lập ấp, dựng lên đất đai, làng xã hiện nay. Đây là những dịp để cho các tầng lớp cư dân địa phương ôn lại quá trình đi lên của địa phương mình, nhờ công sức mồ hôi của tổ tiên đã biến đổi làng Hạ từ một làng nhỏ ven đô thành một địa phương giàu có, ở vị trí trọng yếu ở Hải Phòng.
Ngày 13 tháng 02 năm 1996, Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 310 – QĐ/BT công nhận đền Hạ là Di tích Lịch sử cấp quốc gia.