Góc nhìn từ thực tiễn cuộc chiến chống hàng giả và gian lận thương mại
LTS: Sau loạt chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia, cuộc chiến chống hàng giả, gian lận thương mại trên phạm vi cả nước ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực: các đường dây lớn bị bóc gỡ, thị trường dần minh bạch hơn ở nhiều địa bàn trọng điểm. Song song với những chuyển biến tích cực, thực tiễn cũng chỉ ra nhiều thách thức còn tồn tại: sự tái phạm dai dẳng, thủ đoạn ngày càng tinh vi, thậm chí công khai thách thức cơ quan chức năng. Từ thực tiễn ấy, bài viết này đề xuất một số giải pháp bền vững: kiểm tra đột xuất dựa trên dữ liệu rủi ro; xây dựng cơ sở dữ liệu vi phạm dùng chung để chặn tái phạm liên tỉnh; phổ cập xác thực nguồn gốc bằng QR; triển khai ứng dụng phản ánh đa ngôn ngữ 24/7 cho người dân và du khách; ràng buộc trách nhiệm lữ hành; đồng thời tăng chế tài xử phạt theo cấp độ… Mục tiêu sau cùng là khôi phục trật tự thị trường, bảo vệ người tiêu dùng trong nước và quốc tế, củng cố hình ảnh một nền thương mại - du lịch Việt Nam minh bạch, an toàn và đáng tin cậy.
Ảnh minh họa.
Những tồn tại từ thực tiễn
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện số 65/CĐ-TTg ngày 15/5/2025 mở đợt cao điểm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đến ngày 15/6/2025, đồng thời ban hành Chỉ thị số 13 ngày 17/5/2025 yêu cầu tăng cường đấu tranh trong tình hình mới. Hiệu ứng chính sách thể hiện rõ trên bình diện cả nước: 6 tháng đầu năm 2025, các lực lượng đã bắt giữ, xử lý gần 50 nghìn vụ liên quan buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, gian lận thuế; thu nộp ngân sách gần 6.500 tỷ đồng; khởi tố 1.899 vụ với 3.271 bị can.
Riêng tháng cao điểm, số vụ xử lý hơn 10.836, tăng 79,34% so với tháng liền trước; thu ngân sách gần 1.300 tỷ đồng, tăng 258,43%; tạm giữ tang vật ước trên 4.075 tỷ đồng; khởi tố hơn 200 vụ với 378 bị can. Cùng lúc, hơn 5.500 cửa hàng trên cả nước phải đóng cửa, tạm dừng hoạt động chờ thời cơ. Những con số cho thấy sức ép thực thi gia tăng, nhưng cũng phơi bày mức độ chống đối và dịch chuyển của vi phạm.
Lực lượng chức năng thành phố Đà Nẵng xử lý các đối tượng sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng không nguồn gốc trên địa bàn.
Không còn kiểu chào mời ồn ào, nhiều cơ sở lập nhóm kín trên Facebook, Zalo hay TikTok để quảng bá sản phẩm, sau đó giao tận khách sạn hoặc hẹn tại những địa điểm kín đáo. Do đó, khách hàng chủ yếu là khách du lịch, giao dịch lại ít khi diễn ra công khai, khiến lực lượng chức năng khó tiếp cận và xử lý. Điều này đặc biệt nguy hiểm với các mặt hàng nhạy cảm như mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, rượu ngoại giả hay thuốc lá điện tử, vốn có thể gây hại trực tiếp đến sức khỏe người tiêu dùng.
Dù vậy, khảo sát thực địa cho thấy bức tranh còn nhiều “vùng xám”: trên các tuyến phố du lịch ven biển, trong chợ đêm và dọc những trục mua sắm sầm uất, hàng hóa không rõ nguồn gốc vẫn được bày bán, từ quần áo, mỹ phẩm đến đặc sản địa phương.
Xuất hiện đồng thời hai trạng thái khó kiểm soát: “bán kín” trong tòa nhà nhiều tầng, chào mời bằng tờ rơi rồi giao dịch khép kín; và bày bán công khai, rầm rộ tại các điểm quy mô lớn, thu hút đoàn khách theo tour. Không ít cơ sở đã từng bị xử phạt nhưng tái phạm, thậm chí tổ chức bài bản hơn, tận dụng kẽ hở về thời gian, không gian và kênh online để né kiểm tra.
Chính sự song hành giữa kín đáo và công khai này đang tạo nên điểm nghẽn thực thi: lực lượng phải chia mỏng, chi phí giám sát tăng, trong khi khả năng răn đe chưa đủ để bẻ gãy động cơ lợi nhuận từ vi phạm. Đây là bối cảnh đặt ra yêu cầu chuyển từ “đánh theo chiến dịch” sang quản trị rủi ro liên tục, dựa trên dữ liệu và phối hợp liên ngành chặt chẽ hơn.
Từ lợi nhuận siêu “khủng” đến “điểm nghẽn” trong thực thi
Hàng giả, hàng nhái thường có giá nhập vào rất thấp. Mặc dù được bán với giá thấp hơn hàng thật rất nhiều, nhưng lợi nhuận vẫn cực kỳ hấp dẫn, khiến các doanh nghiệp kinh doanh, tiểu thương sẵn sàng chấp nhận rủi ro bị phạt. Thậm chí, nhiều người coi tiền phạt như một phần “chi phí kinh doanh”, bởi lợi nhuận thu được từ việc bán hàng giả siêu “khủng” vượt xa số tiền này.
Điển hình, tháng 4/2025 Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an xác định, sản phẩm Thực phẩm bổ sung Kera SuperGreens Gummies (thường được gọi là kẹo Kera) sản phẩm của Công ty CP Tập đoàn Chị Em Rọt, do Công ty CP Asia life sản xuất là hàng giả, đã được Công ty CP Tập đoàn Chị Em Rọt bán ra thị trường 135.325 hộp trong thời gian từ 12/12/2024 đến ngày 19/3/2025, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi người tiêu dùng.
Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã thu giữ 33.201 hộp kẹo Kera thành phẩm; 7.470 hộp kẹo bán thành phẩm; 2.048 kg kẹo Kera; thu hồi 16,3 tỷ/17,5 tỷ đồng lợi nhuận các đối tượng thu được bất chính từ việc sản xuất, buôn bán sản phẩm kẹo Kera. Cơ quan Công an cũng xác định Hoa hậu Thùy Tiên hưởng tiền hoa hồng đến 7 tỷ đồng.
Công ty Cổ phần Tập đoàn Chị Em Rọt đã bán ra thị trường hơn một trăm nghìn sản phẩm kẹo rau củ Kera.
Cơ quan chức năng đã đề nghị truy tố đối với 5 bị can thuộc nhóm Công ty CP Tập đoàn Chị Em Rọt, gồm: Lê Tuấn Linh, Giám đốc, đại diện pháp luật; Nguyễn Thị Thái Hằng (Hằng du mục), Chủ tịch HĐQT Công ty; Lê Thành Công, Giám đốc Công ty; Phạm Quang Linh (Quang Linh Vlog), thành viên Hội đồng Quản trị và Nguyễn Thúc Thùy Tiên (Hoa hậu Hòa bình quốc tế năm 2021) về tội “Lừa dối khách hàng”, quy định tại khoản 2 Điều 198 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Cũng trong tháng 4/2025, Công an tỉnh Thanh Hóa triệt phá đường dây chuyên làm giả thuốc chữa bệnh, bắt giữ 14 đối tượng liên quan. Thu giữ 21 loại thuốc tân dược, thuốc chữa xương khớp giả và các nguyên, vật liệu phục vụ sản xuất thuốc giả, với tổng khối lượng gần 10 tấn. Qua đấu tranh, nhóm đối tượng khai nhận, từ năm 2021 đến khi bị bắt, đã bán ra thị trường số lượng thuốc giả rất lớn, số tiền thu lời bất chính gần 200 tỷ đồng.
Một ví dụ điển hình thời gian gần đây nhất về “siêu lợi nhuận” gắn với nghi vấn gian lận trong kinh doanh là vụ Hoàng Hường. Theo thông tin điều tra ban đầu, ngày 3–4/10/2025, Bộ Công an đã khởi tố bà Hoàng Thị Hường (tức Hoàng Hường) và một số thuộc cấp về tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng; cơ quan điều tra cáo buộc từ 01/2021–06/2025 đã để ngoài sổ sách gần 1.800 tỉ đồng doanh thu, kê khai sai thuế GTGT đối với gần 2.100 tỉ đồng doanh thu. Vụ việc cho thấy quy mô dòng tiền rất lớn đằng sau hoạt động bán thực phẩm bảo vệ sức khỏe, mỹ phẩm… qua livestream và hệ sinh thái các doanh nghiệp liên quan.
Đặc biệt, vụ việc đang được dư luận quan tâm những ngày gần đây liên quan đến một KOL nổi tiếng vừa bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh khởi tố và bắt tạm giam là Võ Thị Ngọc Ngân (biệt danh “Ngân 98”) để điều tra về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả đã tạo ra một làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng mạng, bởi Ngân 98 là một gương mặt quen thuộc, sở hữu lượng người theo dõi lớn và thường xuyên quảng cáo các sản phẩm giảm cân, collagen, thực phẩm chức năng.
Theo kết quả điều tra, từ năm 2021, Ngân hợp tác với một số nhà máy tại Hà Nội để sản xuất các sản phẩm “thực phẩm bảo vệ sức khỏe” như Super Detox X3, X7, X1000.
Lợi dụng hình thức “hàng tặng kèm”, Ngân 98 cho sản xuất thêm “viên rau củ Collagen” không được cấp phép lưu hành, dán nhãn thương hiệu trùng với các sản phẩm trên và bán kèm trong “liệu trình giảm cân” từ 4 -15 kg, có giá từ 870.000 đến 1,1 triệu đồng. Dù ghi chú “hàng tặng kèm, không bán”, thực tế sản phẩm này được phân phối trọn bộ cho khách hàng nhằm che giấu hành vi kinh doanh hàng giả.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh khởi tố và bắt tạm giam là Võ Thị Ngọc Ngân (biệt danh “Ngân 98”) cùng tang vật.
Kết quả giám định của Phân viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) xác định các sản phẩm do Ngân 98 sản xuất, kinh doanh không đạt chất lượng, là hàng giả; trong đó một số mẫu chứa chất cấm sibutramin và phenolphthalein, có thể gây rối loạn tim mạch, huyết áp và nguy cơ ung thư.
Cơ quan điều tra xác định, doanh thu từ hoạt động này trong giai đoạn 2023 - 2024 lên tới hàng trăm tỷ đồng, được Ngân 98 chuyển qua nhiều tài khoản để che giấu dòng tiền, trước khi tập trung về tài khoản cá nhân của Ngân.
Các vụ án trên vẫn đang được xử lý theo trình tự pháp luật, các bị can vẫn chưa có bản án sau cùng. Tuy nhiên, từ chợ truyền thống đến sàn thương mại điện tử, từ cửa hàng vỉa hè đến siêu thị hiện đại, hàng giả len lỏi, trà trộn, đánh tráo giá trị thật bằng những sản phẩm gắn mác “cao cấp” nhưng rẻ tiền và nguy hiểm, về thị trường, lợi nhuận siêu cao từ hàng giả khiến nhiều đối tượng bất chấp pháp luật.
Để lý giải vì sao tình trạng này vẫn dai dẳng, có thể thấy rõ các “điểm nghẽn” trong chính sách và thực thi. Để hiểu rõ vì sao tình trạng hàng giả, gian lận thương mại vẫn tồn tại, cần phân tích những nguyên nhân sâu xa.
Thứ nhất, lực lượng quản lý mỏng: Lực lượng mỏng không chỉ là thiếu người, mà thiếu phương thức. Ở các đô thị du lịch và cửa ngõ thương mại, lưu lượng khách và giao dịch dồn vào buổi tối, cuối tuần, mùa cao điểm. Trong khi đó, phần lớn kế hoạch kiểm tra vẫn vận hành theo “giờ hành chính” và theo đợt chiến dịch. Vấn đề nằm ở cách phân bổ nguồn lực: chưa có bản đồ rủi ro động (khu vực – khung giờ – nhóm hàng – mùa vụ), ít sử dụng kiểm tra ngẫu nhiên và “khách hàng bí mật”. Không ít ca kiểm tra bị “lộ bài”, cơ sở kịp thu dọn hoặc chuyển sang kênh trực tuyến. Khâu hậu kiểm cũng vướng: giám định chất lượng, sở hữu trí tuệ mất thời gian; tang vật dễ hư hỏng; hồ sơ kéo dài làm giảm sức răn đe. Hệ quả: hiệu suất mỗi lượt kiểm tra thấp, cảm giác “đuổi theo” vi phạm hiện hữu.
Thứ hai, chế tài chưa đủ sức răn đe. Nghị định 98/2020/NĐ-CP và Nghị định 24/2025/NĐ-CP đã nâng mức xử phạt lên hàng trăm triệu đồng, mặc dù Nghị định mới đã nâng mức phạt, nhưng nhiều mô hình vi phạm có lợi nhuận cực cao như: Mỹ phẩm, thực phẩm chức năng, đồ uống có cồn gắn mác ngoại, phụ kiện thời trang “hot”. Khi lợi nhuận một ngày ngang hoặc vượt mức phạt một lần, các chủ thể tính theo “giá trị kỳ vọng”: Bán 10 ngày, bị phạt 1 lần vẫn lãi. Phạt tuyệt đối (con số cứng) yếu tác dụng với cơ sở doanh thu lớn; biện pháp bổ sung như tước giấy phép theo cấp độ, truy thu lợi bất chính, cấm liên kết lữ hành, công khai vi phạm… chưa áp dụng nhất quán, khiến “hiệu ứng nêu gương” nhạt màu. Một số nơi còn lạm dụng hoàn trả hàng/khắc phục như một cách hợp thức hóa sau vi phạm.
Thứ ba, ý thức một bộ phận hộ kinh doanh còn thấp: Ở các điểm mua sắm phục vụ khách du lịch, tâm lý “khách đi một lần” khiến một số cơ sở chọn con đường “ăn xổi”: Bán hàng nhái, hàng gắn mác ngoại, không đầu tư nguồn gốc. Động lực méo mó xuất hiện khi điểm bán “ăn chia” với lữ hành, hướng dẫn viên theo doanh số; từ đó, du khách bị dẫn đến điểm rủi ro. Bất cân xứng thông tin - rào cản ngôn ngữ, thiếu kỹ năng nhận biết, không có hóa đơn điện tử - khiến khiếu nại, hoàn tiền khó thực hiện. Vi phạm tuy nhỏ nhưng dày, lợi nhuận đều, tạo thành “vòng lặp vô cảm” rất khó triệt tiêu nếu không thay đổi cơ chế.
Thứ tư, sự phối hợp liên ngành chưa đồng bộ: Dù có sự tham gia của Ban Chỉ đạo 389, Sở Công Thương, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Công an, nhưng cơ chế chia sẻ dữ liệu chưa liền mạch. Có nơi bị kiểm tra nhiều lần, có nơi lại bỏ ngỏ, tạo ra kẽ hở cho vi phạm. Thiếu một kho dữ liệu vi phạm dùng chung, cập nhật theo thời gian thực: Lịch sử xử phạt, tình trạng giấy phép, bằng chứng số, khắc phục hậu quả. Khi cơ sở đổi tên, đổi pháp nhân, đổi địa điểm, nơi tiếp nhận không có “hồ sơ tiền sử” để nâng cấp chế tài. Trên không gian số, đầu mối phối hợp với nền tảng mạng xã hội, sàn thương mại điện tử chưa có tiêu chuẩn SLA rõ (thời gian gỡ tin rao, khóa tài khoản tái phạm), khiến “cửa ngách số” luôn mở. Thủ tục giám định, xác minh nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý còn chậm, tạo độ trễ giữa phát hiện–kết luận–xử phạt.
Trong bối cảnh đó, tham khảo kinh nghiệm từ quốc tế cũng cho thấy, việc xử lý hàng giả không thể chỉ dừng ở mức phạt hành chính. Điển hình như Singapore áp dụng chính sách ‘zero tolerance’, phạt tới 100.000 SGD và công khai danh tính vi phạm để tạo áp lực xã hội. Thái Lan gắn trách nhiệm trực tiếp cho chính quyền địa phương trong quản lý chợ đêm, đồng thời rút giấy phép cơ sở tái phạm. Trung Quốc thậm chí tăng nặng chế tài hình sự với khung phạt 3–7 năm tù, có thể tù chung thân nếu gây hậu quả nghiêm trọng. EU lại tập trung bảo vệ người tiêu dùng, áp dụng phạt tiền hàng triệu Euro và cơ chế cảnh báo nhanh RAPEX trên toàn khối.
Những kinh nghiệm này cho thấy, chống hàng giả không thể chỉ trông chờ vào các chiến dịch ngắn hạn hay phạt hành chính, mà phải là một chính sách tổng thể, kết hợp pháp luật, công nghệ và cộng đồng. Đây đều là những kinh nghiệm quý để Việt Nam tham khảo trong việc hoàn thiện chính sách chống hàng giả.
Kiến nghị và giải pháp
Theo ông Phạm Trung Kiên, Phó Chủ tịch Quỹ Chống hàng giả: "Trước hết, công tác kiểm tra phải được tiến hành đột xuất và thường xuyên hơn, thay vì chỉ tập trung vào các chiến dịch theo kế hoạch. Mỗi tỉnh/thành phố lập tổ liên ngành 389 hoạt động linh hoạt ngoài giờ, ưu tiên các điểm nóng theo mùa (đô thị du lịch biển, cửa khẩu, đường biên, chợ đầu mối, kho ngoại quan). Tần suất và thời điểm kiểm tra, hiệu quả quá trình kiểm tra của các cơ quan chức năng cần được đánh giá như bảng xếp hạng công chức. Các đơn vị bị kiểm tra, xử lý sẽ được đưa vào danh sách các doanh nghiệp có lịch sử vi phạm và được công khai niêm yết trên cơ quan báo chí, thậm chí trên các bản tin hành chính công đề người dân dễ nhận biết".
"Việc xây dựng cơ sở dữ liệu vi phạm dùng chung toàn quốc là yêu cầu cấp thiết. Để việc thực thi không “đứt đoạn” theo địa giới hành chính. Cần xây dựng một Cơ sở dữ liệu vi phạm dùng chung. Kiến trúc liên thông với Công an, Hải quan, Thuế, Sở Du lịch, Sở Công Thương các địa phương và Cục Sở hữu trí tuệ. Mỗi cơ sở/đối tượng có định danh thống nhất (MST, mã hồ sơ), lịch sử vi phạm, biện pháp xử lý, tình trạng giấy phép, bằng chứng số, trạng thái khắc phục. Hệ thống phải tự cảnh báo tái phạm cho địa bàn tiếp nhận khi cơ sở “di cư” sang tỉnh khác; đồng thời xuất bản đồ nhiệt theo nhóm hàng, theo mùa, để lãnh đạo có căn cứ tái phân bổ nguồn lực. Một bảng điều khiển công khai theo quý (ẩn danh thông tin cá nhân theo luật) sẽ tạo kênh giám sát xã hội và trách nhiệm giải trình minh bạch", ông Kiên cho biết thêm.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ hiện đại cũng là giải pháp quan trọng. Trục công nghệ cần được nhân rộng theo chuẩn quốc gia, tránh “mạnh ai nấy làm”. Với đặc sản/OCOP và nhóm hàng rủi ro, ban hành đặc tả tem QR định danh đơn chiếc, cho phép truy xuất nguồn gốc tức thì; “dấu vân tay” lô hàng có thể lưu trên máy chủ để ngăn ngừa việc chủ cơ sở tự sửa/xóa sau bán.

Doanh ngiệp nên cung cấp mã QR code cho người tiêu dùng và du khách tự kiểm chứng hàng hóa trước khi thanh toán tiền.
Tại điểm bán, cung cấp thiết bị quét QR cho người tiêu dùng và du khách tự kiểm chứng trước khi thanh toán; hóa đơn điện tử có QR bắt buộc đối với giao dịch du lịch, giúp minh bạch giá vừa tạo dữ liệu thuế tiêu dùng phục vụ phân tích rủi ro. Ở chiều phản hồi, phát triển ứng dụng quốc gia cho phép người dân và du khách gửi phản ánh đa ngôn ngữ (Việt - Anh - Hàn - Trung), kèm hình ảnh/video của sản phẩm, tọa độ GPS nơi mua hàng…Bên nhận thông tin phản ánh cần thành lập đội phản ứng nhanh, tiếp nhận thông tin và phản hồi ban đầu trong 48 giờ. Khi những công cụ này được đưa vào sử dụng, mạng lưới này chắc hẵn sẽ bù đắp nhanh các khoảng trống kiểm tra truyền thống.
Ngoài ra, để “khóa” nguồn cung hàng giả từ gốc, cần có sự liên kết chuỗi thông tin: Chuẩn hóa hồ sơ nguồn gốc – chứng nhận chất lượng - hóa đơn điện tử ở khâu nhập và luân chuyển; kiểm soát kho ngoại quan, bưu kiện, logistics chặng cuối; đối chiếu chéo dữ liệu hải quan - cơ quan thuế - đơn vị vận tải để phát hiện thông tin luồng hàng bất thường. Với thương mại điện tử và mạng xã hội, thiết lập kênh ưu tiên 389 cùng các nền tảng lớn (Facebook, Zalo, TikTok, sàn TMĐT) để gỡ nội dung vi phạm trong 24 - 48 giờ, tạm khóa tài khoản tái phạm, từ khóa cảnh báo rủi ro; đồng thời hiển thị cảnh báo cho người tiêu dùng: “chưa xác thực nguồn gốc” cho các sản phẩm đang nghi vấn.
Song song với nỗ lực của chính quyền, sự tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp cũng đóng vai trò then chốt. Các hiệp hội du lịch, câu lạc bộ doanh nghiệp văn minh cần chủ động tham gia giám sát, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh và tự quản. Tiến hành xác lập danh bạ các địa điểm mua sắm tin cậy để công bố trên các cổng thông tin du lịch địa phương. Lữ hành - hướng dẫn viên được ràng buộc trong hợp đồng mẫu: Nếu đưa khách đến các cơ sở “điểm đen” sẽ bị phạt, đình chỉ thẻ; ngược lại, có cơ chế thưởng xếp hạng khi có tỷ lệ du khách phản ánh tích cực cao.
Khung chế tài xử phạt theo cấp độ cần được đưa ra nghiên cứu và áp dụng thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Căn cứ Luật BVQLNTD 2023, Nghị định 98/2020, Nghị định 24/2025 và Bộ luật Hình sự để nghiên cứu bổ sung các chế tài, đi kèm các hướng dẫn nghiệp vụ thống nhất để các địa phương áp dụng đồng đều. Ở mức hành chính, nghiên cứu chuyển sang phạt theo tỷ lệ doanh thu/thu lợi bất chính thay vì áp theo một mức tuyệt đối; áp dụng cơ chế “Hai lần vi phạm - tước giấy phép”; buộc tiêu hủy hàng và tự chi trả chi phí tiêu hủy. Ở mức dân sự, truy thu toàn bộ lợi nhuận bất chính, cơ quan chức năng sẽ hỗ trợ khởi kiện tập thể cho khách hàng với vụ việc nghiêm trọng. Ở mức hình sự, xem xét hạ ngưỡng truy cứu với nhóm hàng ảnh hưởng trực tiếp sức khỏe (mỹ phẩm, TPCN, đồ uống có cồn); bổ sung tình tiết tăng nặng nếu hành vi nhắm vào khách du lịch; áp dụng hệ quả bổ sung như cấm liên kết lữ hành, đóng băng gian hàng trên sàn TMĐT và cấm quảng cáo trực tuyến trong thời hạn nhất định.
Cuối cùng, lực lượng chức năng cần cung cấp thông tin cho báo chí để phối hợp tuyên truyền, công khai tên cơ sở vi phạm sau khi có các quyết định xử phạt. Đồng thời sản xuất infographic, video ngắn hướng dẫn các bước kiểm tra: “Quét mã QR truy xuất ngồn gốc, yêu cầu hóa đơn,…”, phát ở sân bay, nhà ga, bến xe, khách sạn, chợ, chợ đêm; phát thanh đa ngôn ngữ ở nhà ga, sân bay, các chợ…, các khu vực đông du khách mua sắm. Các cơ quan chức năng cần có các báo cáo định kỳ để công bố số lượng cơ sở vi phạm sau kiểm tra, diễn biến điểm nóng; tuyên dương những doanh nghiệp làm ăn chân chính, coi đó là tấm gương tích cực để nhân rộng trong cộng đồng kinh doanh.
Dưới góc nhìn nghiên cứu - chính sách cấp quốc gia, những giải pháp đã nêu cần được các chuyên gia đưa ra bàn luận, nghiên cứu để được chuẩn hóa và thí điểm trước khi và mở rộng trên phạm vi toàn quốc, đặt dưới sự điều phối thống nhất của Ban Chỉ đạo 389 Quốc gia và các bộ, ngành liên quan. Khi kiểm tra đột xuất được dẫn dắt bởi dữ liệu thời gian thực, xác thực QR trở thành chuẩn hành vi tiêu dùng, ứng dụng phản ánh biến phản hồi xã hội thành lực đẩy, và khung chế tài theo cấp độ khiến vi phạm “Kinh doanh không còn lời”, bức tranh thị trường sẽ chuyển dịch: Tái phạm giảm, niềm tin tăng, doanh nghiệp chân chính thắng thế. Đó là con đường khả thi để cả nước vừa bảo vệ người tiêu dùng trong nước và quốc tế, vừa gìn giữ uy tín điểm đến, đúng tinh thần một nền thương mại - du lịch minh bạch và bền vững.
Công tác chống hàng giả đã có bước tiến, nhưng cuộc chiến này sẽ còn dài và nhiều gian nan. Để duy trì và bảo vệ những thành quả đã đạt được, không chỉ cần sự quyết tâm của chính quyền, mà còn cần sự đồng hành của cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Chỉ khi tất cả cùng chung tay, chúng ta mới có thể xóa bỏ “vùng xám” trong kinh doanh, bảo vệ quyền lợi du khách, tạo dựng niềm tin và khẳng định vị thế trên bản đồ du lịch quốc tế.
Nguồn: https://kythuatchonghanggia.vn/